Cần Giờ là
một huyện ven biển nằm ở phía đông-nam Thành phố Hồ Chí Minh, cách trung tâm
khoảng 50 km. Vào năm 1997, huyện có diện tích 714km2, dân
số là 55.173 người, gồm các dân tộc Kinh (80%), Khơ Me và Chăm. HuyệnCần Giờ bao
gồm thị trấn Cần Thạnh và 6 xã Bình Khánh, An Thới Đông, Lý Nhơn, Tam Thôn
Hiệp, Long Hòa và Thạnh An. Diện tích của huyện là 704,2 km2. Dưới
thời Mỹ- ngụy, địa bàn huyện Cần Giờ gồm
hai quận Cần
Giờ và Quảng Xuyên thuộc tỉnh Phước Tuy. Quận Quảng Xuyên được
thành lập ngày 29-1-1959, gồm các xã Bình Khánh, An Thới Đông, Tam thôn Hiệp và
Lý Nhơn. Ngày 9-9-1960, chính quyền Sài gòn chuyển hai quận này sang tỉnh Biên
Hòa. Về phía chính quyền Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và
Việt Nam dân
chủ cộng hòa thì Cần Giờ thuộc tỉnh Gia Định cũ. Sau khi đất nước thống nhất,
huyện thuộc tỉnh Đồng Nai (1976-1978) với tên gọi là huyện Duyên Hải. Ngày
28-2-1978 huyện Duyên Hải được sát nhập vào Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày
18-12-1991, huyện đổi tên thành Cần Giờ. Địa
hình huyện chia cắt bởi sông, rạch, không có nước ngọt. Rừng Sác và Rừng Đước
đất này chiếm 47,2%.
Trong
30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ, Rừng Sác của huyện Cần Giờ là một “Bát quái trận đồ”,
một vùng sình lầy chi chít sông rạch, bãi triều ngập mặn xen lẫn những giồng,
gò đất cao. Bên những bãi chà nằm sát mặt nước là những cây đước nhô vọt lên
cao. Bên những rừng “gươm” của lá dừa nước là những bộ rễ cây mắn đương đầu với
sóng biển. Bên những “mái nhà tự nhiên của tán cây rừng dày đặc đủ sức che giấu
hàng đại đội là những hàng cây thưa thớt tưởng chừng như ở xứ lạnh lạc loài
đến. Trên trời đủ các loài chim ưa mò cua, ốc, cá. Dưới nước, ngoài tôm, cá có
trăn nước, rái cá, cá sấu. Trong rừng, nhiều nhất là heo rừng, khỉ đen, khỉ
đột. Rừng Sác- một vùng đất gắn liền với những địa danh lịch sử: sông Lòng Tàu,
sông Soài Rạp, cửa biển Cần Giờ... Nơi đây xưa kia, Nguyễn Huệ đã từng
thắng những trận thủy chiến với Nguyễn Ánh có tàu nước ngoài giúp sức; rồi đến
Trương Định những ngày đầu chống Pháp đã từng rút quân về đây lập chiến khu Lý
Nhơn. Xã này còn ngôi đền thờ ông Thần Không Đầu, tức là ông Sáu Hạnh, người
trước khi bị giặc Pháp hành quyết đã nói một câu bất hủ: “Ta thà chết chứ
không để giặc bắt ông Định”. Lúc khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra (1940), nơi đây
cũng đã có mầm mống lực lượng vũ trang của Đảng. Chiến khu Rừng Sác hình thành
từ tháng 10-1945. Đầu năm 1948, Trung đoàn 300, bao gồm một Tiểu đoàn quân Nam
tiến và các đơn vị địa phương, chính thức được thành lập với nhiệm vụ phát
triển chiến tranh du kích, xây dựng căn cứ, đặc biệt là tổ chức các đội chuyên
môn dùng thủy lôi đánh tàu địch xuôi ngược trên các con sông vào cảng Sài Gòn,
ra biển Đông. Rừng Sác bốn bề là nước, nhưng lại thiếu nước ngọt trầm trọng,
phải dự trữ nước mưa và dùng thuyền tiếp tế nước từ nơi khác đến. Suốt 9 năm
kháng chiến chống Pháp đã có hàng trăm chiến sĩ ngã xuống trên đường vận chuyển
nước vì địch phong tỏa gắt gao. Ở đây, “ giọt nước là giọt máu”, đúng như dòng
chữ ghi trên các thùng nước ngọt để nhắn nhủ mọi người dùng dè sẻn. Sau bị địch
ngăn chặn gắt gao, bộ đội ta phải dùng phương pháp chưng cất nước mặn như nấu
rượu để có nước ngọt. Vấn đề gạo càng gay go hơn, hàng tháng trời bộ đội không
biết đến hạt gạo chỉ có củ mì (củ sắn), rau rừng, cua ốc, tôm cá thay cơm. Các
đơn vị phải tổ chức những chợ cá lưu động để đổi lấy lương thực; phải dựa vào
dân ra Sài Gòn mua gạo tiếp tế cho bộ đội. Địa thế Rừng Sác bí hiểm như “bát
quái trận đồ”, lòng dân hướng về kháng chiến và có truyền thống “cứng đầu”, “
bất trị”, nên giặc Pháp đã phải “ớn” Chiến khu Rừng Sác, có năm chỉ mở được một
cuộc càn quét. Bộ đội Rừng Sác đã đánh những trận vang dội: Tối 18-3-1950, ba
khẩu cối áp sát Thủ Thiêm bắn trúng hai chiến hạm Mỹ Stich-ken và An-đơ- xơn
lần đầu đến Sài Gòn để diễu võ, giương oai... Trận đánh đã phối hợp ăn ý với
cuộc mít tinh chống Mỹ khổng lồ của nhân dân Sài Gòn phản đối việc tàu Mỹ vào
cảng và đuổi chúng cút xéo khỏi xứ này. Tháng 5-1951, thủy lôi ta đã đánh chìm
một tàu trọng tải 7.000 tấn của Pháp trên sông Lòng Tàu. Khúc sông này, đến nay
nhân dân vẫn gọi là “Rạch chìm tàu”. Cuối năm 1951, lại một trận kỳ tập
trên sông Soài Rạp bắt sống một tàu tiếp tế của giặc, thu rất nhiều chiến lợi
phẩm. Trên bộ thì đúng ngày mồng 3 Tết năm Nhâm Thìn (1952), Tiểu khu Cần Giờ của
địch án ngữ đường ra biển bị ta tiêu diệt.
Trong
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, khi Sài Gòn trở thành cái gọi là “Thủ đô” của
Việt Nam Cộng hòa, sông Lòng Tàu trở thành “yết hầu” của cái “dạ dày chiến
tranh khổng lồ” thì Chiến khu Rừng Sác là một trận địa lợi hại uy hiếp đầu não,
sào huyệt của bộ máy chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Đoàn 10 Đặc công được
Bộ Chỉ huy Quân Giải phóng miền Nam phân công làm nhiệm vụ thọc sâu, áp sát,
bám trụ bằng mọi giá để tiến công liên tục vào kho tàng, bến cảng của địch từ
Cát Lở, Rạch Dừa đến Nhà Bè, Cát Lái, thành Tuy Hạ, đánh sâu vào nội đô. Thực
hiện nhiệm vụ vinh quang này, đương nhiên, đơn vị phải chấp nhận đương đầu với
sự vây hãm của 5 Tiểu khu quân sự địch: Gò Công, Long An, Gia Định, Biên Hòa,
Phước Tuy và hai Đặc khu Vũng Tàu, Nhà Bè. Chúng thường xuyên được sự chi viện
đắc lực của lực lượng không quân dã chiến 3 Mỹ, sau nữa là Quân đoàn 2 ngụy,
cùng những trận địa pháo lớn, pháo nòng dài của Hạm đội 7 từ ngoài khơi bắn
vào; sự phối thuộc của lực lượng hải quân, các lữ đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ
thiện chiến hành quân đánh phá. Mọi sinh hoạt và chiến đấu của hàng nghìn chiến
sĩ hoàn toàn trên mặt nước sình lầy, phải tự túc mọi bề, người này ngã xuống,
người khác tiếp tục tiến lên với những trận đánh quả cảm, vang động thời đánh
Mỹ: bắn chìm bắn cháy 400 tàu chiến, trên 100 tàu vận tải và nhiều sinh lực
địch... đã khiến kẻ thù phải kinh hoàng bạt vía, hoảng hốt thốt lên: “ ột
cuộc chiến đấu kỳ lạ trong một cuộc chiến tranh kỳ lạ”.
Nguyễn
Thế Vỵ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét